Chiến tranh Đông La Mã-Ba Tư Chiến_tranh_La_Mã-Ba_Tư

Cuộc chiến của Anastasius

Bài chi tiết: Chiến tranh Anastasius
Bản đồ mô tả biên giới La Mã–Ba Tư sau khi phân chia Armenia năm 384. Biên giới vẫn ổn định trong suốt thế kỷ thứ 5.

Cuộc chiến nổ ra khi vua Ba Tư Kavadh I cố gắng giành được hỗ trợ bằng tài chính từ Hoàng đế Đông La Mã là Anastasius I bằng vũ lực.[36] Năm 502, ông đã nhanh chóng chiếm được thành phố vốn chưa sẵn sàng chuẩn bị cho chiến đấu Theodosiopolis[37] và bao vây thành Amida. Cuộc bao vây pháo đài đã chứng minh là khó hơn rất nhiều so với Kavadh nghĩ, quân thủ thành đã có thể cầm cự được ba tháng ba tháng trước khi họ bị đánh tan.[38] Năm 503, người La Mã cũng đã cố gắng tiến hành một cuộc bao vây cuối cùng không thành công vào Amida lúc này do người Ba Tư đánh bại. Trong khi đó, Kavadh xua quân đánh Osroene và bao vây Edessa nhưng cũng chỉ thu được kết quả tương tự.[39] Cuối cùng, 504, người La Mã đã chiếm được ưu thế qua việc tái bao vây Amida, khiến thành phố thất thủ. Năm đó một hiệp ước đình chiến được ký do kết quả từ một cuộc xâm lược của người Hung từ Kavkaz vào Armenia. Mặc dù cả hai Đế chế đã ngồi vào bàn đàm phán, phải đến tháng 11 năm 506, hiệp ước này mới được ký kết.[40] Năm 505, Hoàng đế Anastasius hạ lệnh thi công một pháo đài lớn ở Dara. Đồng thời, các công sự đổ nát cũng phải được nâng cấp tại các thành phố Edessa, Batnae và Amida.[41] Mặc dù không có những cuộc xung đột với quy mô lớn hơn nữa trong suốt triều đại Anastasius, căng thẳng giữa hai vẫn tiếp diễn, đặc biệt là khi công việc xây dựng được tiến hành tại Dara. Sự căng thẳng này bùng phát là bởi vì việc xây dựng các công sự mới tại khu vực biên giới đã bị cấm bởi một hiệp ước được ký kết ở vài thập kỷ trước đó. Hoàng đế Anastasius theo đuổi các kế hoạch của mình bất chấp sự phản đối của người Ba Tư. Những toà thành được xây dựng xong trong những năm 507-508.[42]

Chiến tranh Iberia

Bài chi tiết: Chiến tranh Iberia
Đế quốc La Mã và Ba Tư năm 477, cũng như các nước láng giềng của họ, nhiều trong số đó bị kéo vào cuộc chiến tranh giữa các cường quốc

Trong 524-525, Kavadh xin cầu hoà với Justin I thông qua con trai ông ta là Khosrau nhưng các cuộc đàm phán đã sớm bị phá vỡ.[43] Căng thẳng giữa hai cường quốc đã biến thành các chiến tranh khi những người Iberia ở vùng Kavkaz dưới sự chỉ huy của Gourgen đào tẩu đến La Mã vào năm 524-525.[44] Những cuộc chiến công khai giữa La Mã-Ba Tư đã nổ ra trong khu vực Nam Kavkaz và thượng Mesopotamia vào các năm 526-527.[45] Những năm đầu của cuộc chiến, người Ba Tư chiếm ưu thế bởi vào năm 527, các cuộc nổi dậy ở Iberia bị nghiền nát, một cuộc tấn công vào các thành phố Nisibis và Thebetha của người La Mã trong năm đó cũng đã không thành công và những nỗ lực để cứu viện Thannuris và Melabasa bị ngăn cản bởi các cuộc tấn công từ Ba Tư.[46] Tân hoàng đế của La Mã Justinianus I tiến hành tổ chức lại quân đội Đông La Mã nhằm cố gắng để khắc phục các sai lầm đã lộ ra sau những thành công của người Ba Tư.[47]

Sơ đồ trận Dara

Vào năm 530, một cuộc tấn công lớn của người Ba Tư ở vùng Lưỡng Hà đã bị đánh bại bởi quân La Mã dưới sự chỉ huy của danh tướng Belisarius tại Dara, trong khi một đội quân Ba Tư thứ hai ở vùng Kavkaz đã bị đánh bại bởi Sittas tại Satala. Belisarius đã đánh bại quân Ba Tư và Lakhmid (người Hindu) tại trận Callinicum trong năm 531. Trong cùng năm người La Mã đã chiếm được một số pháo đài ở Armenia, trong khi người Ba Tư lại chiếm được hai pháo đài ở phía đông Lazica.[48] Ngay sau thảm bại tại trận Callinicum, người Ba Tư đã có các cuộc đàm phán không thành công với người La Mã.[49] Hai bên mở lại các cuộc đàm phán vào mùa xuân năm 532 và cuối cùng ký kết hiệp ước hòa bình vĩnh cửu trong tháng 9 năm 532, hòa ước này kéo dài được ít hơn tám năm. Cả hai cường quốc đều đồng ý trả lại tất cả các lãnh thổ bị chiếm đóng và người La Mã đồng ý trả một lần một khoản tiền 110 centenaria (£ 11.000 vàng). Vùng Iberia vẫn nằm trong tay người Ba Tư và những người Iberia tị nạn có sự lựa chọn là ở lại trong lãnh thổ La Mã hoặc trở về quê hương của họ.[50]

Justinianus đại chiến Khosrau I

Đế quốc La Mã và Ba Tư dưới thời trị vì của Justinianus I
  Đế quốc La Mã (Byzantine)
  Tái chiếm bởi Justinianus
  Đế quốc Sassanid
  Chư hầu của Sassanid

Người Ba Tư đã phá vỡ "Hiệp ước hòa bình vĩnh cửu" vào năm 540, có lẽ để trả lời cuộc tái chiếm lại lãnh thổ phía tây đã bị mất trước đây của người La Mã. Cuộc chiến này có thể diễn ra là nhờ sự chấm dứt của cuộc chiến ở phía Đông. Khosrau I xâm chiếm và tàn phá Syria, bắt các thành phố của Syria và Lưỡng Hà phải trả một số tiền lớn và cướp bóc có hệ thống các thành phố khác bao gồm cả Antiochia.[51] Belisarius bị buộc phải chấm dứt các chiến dịch ở phía Tây để đối phó với các mối đe dọa từ người Ba Tư. Ông tiến hành một chiến dịch không thu được kết quả rõ ràng tại Nisibis năm 541. Vua Ba Tư, Khosrau cũng đem quân tiến vào Lưỡng Hà trong năm 542 khi ông này cố gắng chiếm Sergiopolis.[52] Ông phải sớm rút lui khi đối mặt với quân đội của tướng Belisarius, nhưng vẫn cố tấn công thành phố Callinicum trên đường rút quân.[53] Các cuộc tấn công vào một số thành phố của La Mã đã bị đẩy lùi và quân Ba Tư bị đánh bại tại Dara.[54] Năm 543, người La Mã lại phát động một cuộc tấn công vào Dvin nhưng bị đánh bại bởi một đội quân Ba Tư nhỏ ở Anglon. Cuộc vây hãm Edessa của Khosrau ở năm 544 đã không thành công mặc dù ông ta thậm chí đã tìm cách mua chuộc quân thủ thành.[55] Sau khi người Ba Tư rút về nước, người La Mã phái sứ giả đến xin cầu hoà ở Ctesiphon.[56] Một thỏa thuận ngừng chiến 5 năm đã được ký kết vào năm 545, được bảo đảm bằng các khoản tiền cống nạp của người La Mã.[57]

Biên giới La Mã–Ba Tư tại thời điểm Justinianus băng hà năm 565, cùng với Lazica thuộc trong tay Đông La Mã (Byzantine)

Đầu năm 548, trước sự áp bức của người Ba Tư, vua Gubazes của Lazica đã kêu gọi Hoàng đế Justinianus khôi phục lại quyền bảo hộ La Mã. Vị Hoàng đế liền nắm lấy cơ hội này và trong năm 548-549, liên quân La Mã và Lazica giành được một loạt thắng lợi trước quân đội của Ba Tư, mặc dù họ đã không thành công để tiêu diệt những đơn vị đồn trú chính tại Petra. Thành phố này cuối cùng cũng bị chinh phục vào năm 551, nhưng trong cùng năm đó một cuộc tấn công của người Ba Tư do tướng Mihr-Mihroe chỉ huy đã chiếm được miền đông Lazica.[58] Thỏa thuận ngừng chiến đã được thiết lập vào năm 545 và ra hạn ngừng chiến thêm 5 năm nữa với điều kiện là người La Mã phải trả 2.000 cân vàng mỗi năm.[59] Tại Lazica, cuộc chiến bất phân thắng bại kéo dài nhiều năm và không bên nào có thể chiếm được ưu thế một cách hoàn toàn.[60] Khosrau, người giờ đây phải đối phó với Người Hung trắng, đã gia hạn ngưng chiến vào năm 557, và lần ngưng chiến này đã không còn loại trừ vùng Lazica; các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục nhằm đạt được một hiệp ước hòa bình cuối cùng.[61] Cuối cùng, vào năm 561, các phái viên của Justinianus và Khosrau đã nhất trí về một nền hòa bình 50 năm. Người Ba Tư đồng ý rút khỏi Lazica và nhận được khoản cống nộp là 30.000 nomismata (solidi) hàng năm.[62] Cả hai bên cùng đồng ý không xây dựng thêm các công sự mới ở gần biên giới và giảm bớt các hạn chế về ngoại giao và thương mại.[63]

Chiến tranh vì Kavkaz

Chiến tranh nổ ra một lần nữa khi các vùng Armenia và Iberia nổi dậy chống lại sự thống trị của người Sassanid trong năm 571, sau khi cuộc đụng độ có liên quan đến La Mã và Ba Tư ở Yemen và sa mạc Syria, và việc La Mã đã đàm phán liên minh với người Đột Quyết để chống lại người Ba Tư.[64] Justinus II đưa Armenia dưới sự bảo hộ của mình, trong khi quân đội La Mã dưới sự chỉ huy của Marcianus, cháu trai của Justinus, đánh Arzanene và tiến vào vùng Lưỡng Hà thuộc Ba Tư, nơi họ đánh bại các lực lượng địa phương.[65] Việc Marcianus bất ngờ bị cách chức và sự xuất hiện của quân đội Ba Tư dưới sự thống lĩnh của vua Khosrau đã dẫn đến việc vùng Syria nặng nề. Thất bại của người La Mã trong cuộc bao vâyNisibis và thành phố Dara thất thủ.[66] Với một khoản tiền cống nộp lên tới 45.000 solidi, một thỏa thuận ngừng chiến kéo dài một năm ở vùng Lưỡng Hà (cuối cùng kéo dài đến năm năm) đã được ký kết,[67] nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục ở vùng Caucasus và trên vùng biên giới sa mạc.[68] Năm 575, Khosrau I đã cố gắng kết hợp cuộc xâm lược ở Armenia vào cuộc thảo luận về một nền hòa bình vĩnh viễn. Ông đã tiến hành xâm lược vùng Anatolia và chiếm thành phố Sebasteia, nhưng sau một trận chiến ở gần Melitene, quân đội Ba Tư đã bị hứng chịu tổn thất nặng nề trong khi phải rút lui qua vùng Euphrates dưới những cuộc tấn công du kích của quân La Mã.[69]

Đế quốc Sassanid và các nước láng giềng (tính cả đế quốc Đông La Mã) vào năm 600 

Người La Mã khai thác tình trạng lộn xộn của ngươì Ba Tư, và tướng Justinianus xâm chiếm sâu vào lãnh thổ Ba Tư và tập kích vào thành phố Atropatene.[69] Vua Khosrau tìm kiếm hòa bình, nhưng ý tưởng này bị loại bỏ sau khi Tamkhusro giành được một chiến thắng ở Armenia, nơi mà các chiến dịch của La Mã bị xa lánh bởi cư dân địa phương.[70] Mùa xuân năm 578 cuộc chiến tranh ở Lưỡng Hà lại tiếp tục với các cuộc tấn công của người Ba Tư vào lãnh thổ của La Mã. Tướng La Mã, Mauricius trả đũa bằng cách đột kích vào vùng Lưỡng Hà của Ba Tư, chiếm thành lũy Aphumon và bao vây Singara. Khosrau lại một lần nữa phải mở các cuộc đàm phán hòa bình, nhưng ông qua đời vào đầu năm 579 và người kế nhiệm ông Hormizd IV lại muốn tiếp tục chiến tranh.[71]

Biên giới La Mã-Ba Tư từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 7

Trong 580, Hormizd IV cho bãi bỏ chế độ quân chủ ở Iberia Caucasus và biến Iberia thành một tỉnh Ba Tư được cai trị bởi một marzpan (thống đốc).[72][73]Trong những năm 580, cuộc chiến vẫn tiếp tục bất phân thắng bại với chiến thắng ở cả hai phía. Năm 582, Mauricius thắng một trận chiến ở Constantia trước Adarmahan và Tamkhusro, những người đã bị giết chết trong trận đánh, nhưng vị tướng La Mã đã không khuếch trương chiến thắng của mình mà ông vội vã quay về Constantinopolis để theo đuổi tham vọng lên ngôi báu của mình.[74] Cũng vậy một chiến thắng nữa của La Mã tại Solachon năm 586 đã không thành công trong việc phá vỡ bế tắc.[75]

Người Ba Tư chiếm được Martyropolis nhờ có tay trong vào năm 589, nhưng năm đó lại là năm bế tắc bị phá vỡ khi viên tướng Ba Tư Bahram Chobin đã phát động một cuộc nổi loạn vì bị sa thải và làm nhục bởi vua Hormizd IV. Hormizd bị lật đổ trong một cuộc đảo chính cung đình vào năm 590 và được thay thế bởi con trai ông – Khosrau II, nhưng Bahram vẫn tiến quân và đánh bại Khosrau II, buộc ông này phải chạy trốn sang lãnh thổ La Mã, trong khi Bahram lên ngôi như là Bahram VI. Với sự hỗ trợ từ Mauricius, Khosrau đã tạo nên một cuộc chiến chống lại Bahram và trong 591 kết hợp của các lực lượng ủng hộ ông này với người La Mã đã phục hồi ngai vị cho Khosrau II. Để đổi lấy sự giúp đỡ của người La Mã, Khosrau không chỉ trả lại Dara và Martyropolis mà cũng đồng ý nhượng lại nửa phía tây của Iberia và hơn một nửa vùng Armenia dưới sự kiểm soát của Ba Tư cho người La Mã.[76]

Điểm cực đỉnh

Đế quốc Byzantine và Sassanid năm 600

Năm 602 quân đội La Mã trong các chiến dịch tại vùng Balkan nằm dưới sự chỉ huy của Phocas, người đã soán ngôi thành công và sau đó giết chết Hoàng đế Mauricius cùng gia đình của ông ta. Khosrau II sử dụng cái chết của ân nhân của mình như là một cái cớ để gây chiến.[77] Trong những năm đầu của cuộc chiến người Ba Tư giành được các thành công áp đảo chưa từng thấy. Họ đã được hỗ trợ bằng cách sử dụng hình ảnh của Khosrau như là con rể của Mauricius và cuộc nổi dậy chống lại tướng Narses của Phocas.[78] Năm 603, Khosrau đánh bại và giết chết tướng La Mã Germanus ở vùng Lưỡng Hà và bao vây Dara. Thành phố Dara thất thủ sau 9 tháng bị bao vây. Trong những năm sau đó người Ba Tư dần dần vượt qua các thành phố pháo đài ở Lưỡng Hà bằng các cuộc vây hãm.[79] Đồng thời họ đã giành một loạt chiến thắng tại Armenia trước sự thờ ơ của hệ thống các đơn vị đồn trú La Mã ở vùng Kavkaz.[80]

Phocas bị lật đổ vào năm 610 bởi Heraclius, người đi thuyền đến Constantinopolis từ Carthage.[81] Khoảng thời gian đó người Ba Tư đã hoàn thành cuộc chinh phục của họ ở vùng Lưỡng Hà và vùng Kavkaz và trong năm 611 họ đã tràn vào SyriaTiểu Á, chiếm Caesarea.[82] Trục xuất được người Ba Tư khỏi Tiểu Á năm 612, Heraclius lại tiếp tục phát động một cuộc tấn công lớn vào Syria trong năm 613. Ông lạị bị đánh bại bên ngoài Antiochia bởi ShahrbarazShahin và các vị trí của La Mã lại sụp đổ.[83] Trong thập kỷ sau người Ba Tư đã có thể chinh phục PalestineAi Cập[84] và tàn phá Anatolia.[85][86][87][88] Trong khi đó, người AvarSlav đã lợi dụng tình hình này để tràn ngập vùng Balkan, đưa đế chế La Mã đến bờ vực của sự hủy diệt.[89]

Một đồng bạc thời Hậu La Mã có dòng chữ Deus adiuta Romanis

Trong những năm này, Heraclius ra sức xây dựng lại quân đội của mình, cắt giảm những chi phí phi quân sự, in thêm tiền tìm kiếm sự tài trợ của Giáo hội cùng với sự ủng hộ của Thượng phụ Sergius, để tạo được các nguồn kinh phí cần thiết để tiếp tục chiến tranh.[90] Năm 622, Heraclius rời thành phố Constantinopolis sau khi uỷ thác thành phố cho Sergius và tướng Bonus, người cũng là quan nhiếp chính của con trai ông ta. Ông tập hợp lực lượng của mình ở Tiểu Á và sau khi tiến hành hàng loạt các hoạt động để làm sống lại tinh thần của binh sĩ, ông đã phát động một cuộc tấn công mới mang tính chất của một cuộc thánh chiến.[91] Tại Kavkaz ông giáng đòn và đánh bại một đội quân Ả Rập đồng minh của người Ba Tư và sau đó giành được một chiến thắng trước người Ba Tư dưới sự chỉ huy của Shahrbaraz.[92] Sau một thời gian tạm lắng tới năm 623, trong khi Heraclius đàm phán thỏa thuận ngừng chiến với người Avar, ông lại tiếp tục chiến dịch của mình ở phía Đông vào năm 624 và đánh bại một đội quân dẫn đầu bởi Khosrau tại Ganzak ở vùng Atropatene.[93] Năm 625 ông đánh bại các tướng Ba Tư là Shahrbaraz, Shahin và Shahraplakan ở Armenia và trong một cuộc tấn công bất ngờ cũng mùa đông đó ông đã đột kích vào sở chỉ huy của Shahrbaraz và tấn công vào quân đội của ông này tại nơi trú đông của họ.[94] Được hỗ trợ bởi một đội quân Ba Tư dưới sự chỉ huy của Shahrbaraz, người Avar và Slav tiến hành bao vây Constantinople nhưng không thành công trong năm 626,[95] trong khi lần thứ hai quân đội Ba Tư dưới sự chỉ huy của tướng Shahin lại phải chịu một thất bại tan nát trước quân đội của Theodore – anh trai của Heraclius.[96]

Vụ ám sát Khosrau II, trong một bản vẽ của Shahnameh của Shah Tahmasp của Abd al-Samad kh. 1535. Các bài thơ Ba Tư đều từ Shahnameh của Ferdowsi

Trong khi đó, Heraclius thành lập một liên minh với người Turk, những người đã lợi dụng sự suy giảm sức mạnh của người Ba Tư để tàn phá lãnh thổ của họ ở vùng Kavkaz.[97] Cuối năm 627, Heraclius đã phát động một cuộc tấn công trong mùa đông vào Lưỡng Hà, tại đây bất chấp việc quân Thổ Nhĩ Kỳ đi theo ông đào ngũ cả loạt, ông đánh bại người Ba Tư tại Trận Nineveh. Tiếp tục tiến về phía nam dọc theo sông Tigris, ông đánh chiếm một cung điện lớn của vua Khosrau tại Dastagird và ông chỉ bị cản trở không tấn công được thành phố Ctesiphon bởi các cầu trên con kênh Nahrawan bị phá hủy. Mất uy tín bởi hàng loạt những thất bại của mình, Khosrau bị lật đổ và giết chết trong một cuộc đảo chính do chính con trai của ông – Kavadh II tiến hành, người cùng một lúc chấp nhận các điều kiện hòa bình và đồng ý rút ra khỏi tất cả các vùng lãnh thổ chiếm đóng.[98] Heraclius đã phục hồi cây thánh gia linh thiêng ở Jerusalem trong một buổi lễ hoành tráng vào năm 629. Đến đây thì cuộc chiến tranh La Mã–Ba Tư kéo dài hơn 700 năm về cơ bản đã kết thúc.[99]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_La_Mã-Ba_Tư http://www.allempires.com/article/index.php?q=sass... http://www.allempires.com/article/index.php?q=war_... http://www.ancientsites.com/aw/Post/1048936 http://www.derafsh-kaviyani.com/english/sassanian.... http://www.freewebs.com/vitaphone1/history/sozomen... http://www.freewebs.com/vitaphone1/history/sozomen... http://books.google.com/books?id=d9kFAAAAQAAJ&prin... http://www.iranica.com/newsite/index.isc?Article=h... http://www.livescience.com/13113-ancient-chemical-... http://www.questia.com/library/book/the-roman-near...